Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

"Vãn" trong "than hay hay vãn" và "Ai tư vãn" | Học giả An Chi giải đáp.

C. Vậy thì đương nhiên là nó không có liên tưởng gì với “khốc” (là khóc thành tiếng) trong quờ cái nghĩa của từ này cả vì tuy người ta có khóc thương người chết trong bài vãn nhưng đây chỉ là một phần của nội dung mà thôi. V. Trên đó có ghi lời ai điếu của người đi viếng tang. Ở đây, nó chỉ có thể là một với “vãn” trong “chuyện vãn” và “ve vãn” mà thôi. Đây là nói riêng về nghĩa của “vãn” trong “than vãn” còn chính từ tổ động từ “than vãn” thì chỉ là một biến thể ngữ âm “nhẹ nhàng” của hai chữ Hán “thán vãn” [嘆挽Â] mà thôi.

Với các cấu trúc đẳng lập như thế, ta hoàn toàn có quyền suy luận rằng từ “vãn” đã từng hành chức như một động từ, dĩ nhiên với nghĩa đã thấy là thổ lộ lòng thương tình đối với người đã khuất.

Và khi người ta “kể” thì người ta hướng về người chết, coi như mình đang nói chuyện với người chết bởi thế đây là tiền đề cho sự xuất hiện của từ tổ đẳng lập “chuyện vãn”.

Nghĩa hoán dụ này đã biến “vãn” thành một đơn vị độc lập trong từ vựng của tiếng Việt miền Nam, như đã được ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự điển của Huình-Tịnh Paulus Của: “Vãn.

Tại chữ [輓], Hán Việt tự vị của Thiều Chửu giảng: “Vãn ca (là) tiếng họa lại của kẻ cầm phất đi kèm xe tang, vì thế nên đời sau gọi viếng người chết là vãn”. Ngay sát sườn thì nó có một trường giao kèo dạng từ nguyên học là chữ “thán” [炭] trong “đồ thán” [涂炭] cũng đã biến thành “than” trong “lầm than” (“lầm” [= bùn] chính là nghĩa của chữ “đồ” [涂]).

A. ” Màu trắng mà Huình-Tịnh Paulus Của nói đến chỉ là màu cổ truyền chứ hiện thời không vô số những bức vãn bằng nhung đen thêu hoa văn, trên đó có những chữ như “Vãng sinh cực lạc”, chả hạn. Độc giả:  Xin hỏi ông An Chi: Từ “vãn” trong “than vãn”, “ai tư vãn” có phải là khóc không? Từ này khác với từ “khốc” (khóc) như thế nào? BQH (Bình Phước)  Học giả An Chi:  Trước nhất, xin nói về hai chữ “khốc” và “khóc”.

Đây chính là tiền đề ngầm cho sự xuất hiện của từ tổ đẳng lập “ca vãn” (“ca” và “vãn” cùng một trường nghĩa). “Khốc” là một yếu tố Hán Việt mà chữ Hán là [哭], có nghĩa là “khóc to thành tiếng”, khác với “khấp” [泣], tức là khóc chảy nước mắt mà không thành tiếng. Rốt cuộc thì sự “chuyện vãn” thân tình, có thật lòng hay không không biết, để chiếm lấy trái tim hay thân xác của một cô gái, đã đưa đến sự ra đời của tổ hợp đẳng lập “ve vãn”.

Đây là một nguyên tố Hán Việt, chữ Hán là [挽] (cũng viết thành [輓]), mà Đương đại Hán ngữ tự vị của nhóm Lý Quốc Viêm (Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 2001) giảng là “ai điệu tử giả [哀悼死者] (yêu người chết). Nhưng tại sao “vãn” trong “than vãn” lại có thể là một với “vãn” trong “chuyện vãn” và “ve vãn”? Sự thể có thể được giảng giải như sau. Và dĩ nhiên là ta còn có nhiều trường hợp khác: – cấm (khẩu) → câm (miệng); – (cân) đái → (cân) đai; – đối (một cặp) → đôi (lứa); – đống [凍] → đông (lạnh); – háo [耗]→ hao (mòn); – (thống) kế → (thống) kê; – (ly) tán → (lìa) tan; v.

Còn “vãn” trong “than vãn” và “vãn” trong “ai tư vãn” thì không phải là một. “Khóc” là một điệp thức của “khốc” - có thể được một số tác giả xem là một từ Hán Việt Việt hóa - nhưng trong khi “khốc” là một hình vị phụ thuộc thì “khóc” đã là một hình vị độc lập, cũng là một từ.

Chữ “vãn” thì vẫn giống hệt còn “thán” lại biến thành “than” nhưng chuyện “sắc sắc không không” này (thanh 5 → thanh 1 [không dấu]) trong lĩnh vực từ nguyên Hán Việt là chuyện thông thường. Nhưng “vãn” trong “than vãn” thì khác. Động từ này có một từ đồng tức thị “kể”, vẫn còn tồn tại trong Nam cho đến nhiều năm gần đây và được Việt Nam từ điển của Lê Văn Đức giảng là “vừa khóc vừa nhắc lại những nỗi-niềm thương - tiếc”.

Hiện thời thì hiện tượng “kể” gần như đã đi vào cõi tuyệt tích chứ ai được sống cách đây từ nửa thế kỷ trở lên, khi nó không chỉ là một phản ứng mang tính cá nhân trước cái chết của người thân, mà còn gần như là một tục tĩu, thì sẽ thấy “kể” có nhiều cung bậc sống động đầy kịch tính, khi trỗi lên, lúc lắng xuống, khi chậm, lúc nhanh v.

Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh giảng là “điếu người chết”. V. Trong “ai tư vãn” [哀思挽], một danh ngữ đặt theo cú pháp tiếng Hán, thì “vãn” là trọng điểm, tức danh từ bị định ngữ mà định ngữ (bổ nghĩa) là “ai tư”. Lời than tiếc, viết vào vải trắng mà đưa kẻ chết. Với nghĩa gốc trên đây của nó, “vãn” đã được dùng theo hoán dụ để chỉ cái vật thể bằng giấy, bằng lụa, bằng nhung, v. Ở đây, “vãn” có tức thị bài văn hoặc lời nói thông tõ lòng tiếc thương đối với người kí vãng.

V… khiến người ta có thể can dự đến khái niệm “âm nhạc”. Đây là một động từ, đi đôi với động từ “than” thành từ tổ động từ đẳng lập “than vãn”. Xin nhớ rằng danh từ và động từ là hai từ loại đối nghịch với nhau nên ta dứt khoát không thể nhập từ “vãn” này làm một với từ “vãn” ở phần trên.

Ngoài hai từ tổ sau hết này, quyển từ điển Annam Latinh (1772-1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine còn ghi nhận cho ta thêm một từ tổ động từ khác nữa là “ca vãn” và đối dịch là “canere” (ca, hát).