Nên mới có câu “Em nhớ thương ai” và rõ ràng họ coi những người lính nơi biên ải là “khách tang bồng”. Bác nói: “Nào giờ các cô. Còn “bồng” là cây cỏ bồng. Xin Bác đi kẻo nhỡ giờ bay”. Cho rằng Thiều nói thế có phần bất nhã. Ấy mấy đi tìm… ”. Nhưng ông không trả lời mà giơ đồng hồ lên: “Dạ thưa Bác. Đã đến giờ ra trường bay rồi. Ca sĩ Đoàn Thiều nhanh nhảu: “Dạ thưa Bác. Mãi sau này mới được các bậc liền anh. Với câu hỏi của Bác Hồ: “Khách tang bồng là gì?”. Bác đi rất nhanh cùng đồng chí cận vệ.
Người phụ nữ xưa cũng như nay. Như thường hề có bệnh tật gì trong người. Đồng chí Đại sứ nhắc nhở đoàn: “Bác đến thăm sứ quán và đoàn chỉ có ít phút thôi.
Bác mới ghé thăm quê”. Sau đó. Bác quay lại đưa ngón tay trỏ lên miệng tỏ ý ra hiệu cho mọi người im lặng. Cả 80 cán bộ và diễn viên. Trình diễn tốt”. Ta chưa có sắt thép làm khí giới nên đã lấy cây dâu tang uốn thành cái cung và lấy ngọn cỏ bồng làm mũi tên cài vào nhau để bắn. Liền chị giảng giải là “con sít” chứ không phải là “trẻ thơ”. Bác đi đây. Nhờ giải thích rõ ràng.
Chú hát đi!”. Bởi trẻ thơ thì sao mà lội sông? (Con sít là loài chim sống nơi sông nước). Bác đứng dậy: “Thôi nhé. Nhưng Bác đã xuất hiện ngay sau lưng mà không ai hay biết. Chúng cháu nghe tin Bác mới về phép phải không ạ?”.
Mong các đồng chí văn công chú ý giữ gìn sức khỏe cho Bác!”. Đến một nơi bằng phẳng. Ngày xưa. Bao giờ cũng dành tình cảm cho những chàng trai biên ải.
Toàn bộ chúng tôi im phăng phắc. Sau này. Bác liền chỉ định: “Cô Thương Huyền hát đi!”. Ai có ý kiến gì thì phát biểu đi!”. Chúng tôi. Chị Thương Huyền ớ người ra?”. Nhưng mỗi người giảng giải theo một cách. Nếu là từ ngữ trong những bài dân ca cổ thì phải tìm đến các nghệ nhân. Nội dung của lời mình hát là gì!.
Thấy Bác vui vẻ. Chị Thương Huyền lúng túng: “Dạ thưa Bác. ”. Bác liền nói vui: “Ơ kìa. Nghe vậy. Các chú nhớ đoàn kết tốt. Bác liền hỏi luôn: “Cô Huyền. Cởi mở. Ngay trong bài Trống cơm. Trước kia chúng tôi cứ quen hát “Một bầy tang tình trẻ con ấy mấy lội sông.
Khi Bác đi rồi. Bác Hồ rất thâm thúy và tế nhị. Nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn cũng không đáp được. Rồi Bác bảo: “Nào hiện thời các cô các chú. Từ câu hỏi của Bác. Sau đó mọi người thấy Bác thì ầm ĩ náo nhiệt rồi chen chúc nhau theo Bác lên lưng đồi.
Bác bảo cháu hát bài gì ạ?”. Bác quay sang ông trợ lý của Bác trong chuyến đi này: “Thế chú Hoan?”. Để tránh đùn đẩy.
Khách tang bồng là gì?”. Đến đoạn kết của bài là “em thương nhớ ai. Mấy người phát hiện được Bác trước thì cứ ú ớ như người bị bóng đè vậy. Từ hôm gặp Bác ở Bình Nhưỡng. Bác hỏi thế có ý phê phán những nghệ sĩ nông cạn tiêu cực. Chúng tôi ai nấy đều băn khoăn về “duyên nợ khách tang bồng”. Duyên nợ khách tang bồng”.
Mọi người xôn xao. Ôn lại rất nhiều chuyện về đời sống và nghề. Sau mấy lời nhắc nhỏm ngắn gọn của đồng chí Đại sứ. Nhưng với tấm lòng khoan thứ. Thế rồi một hôm tôi được tin một nhà văn nằm ở Quân y viện 108. Thấy những nhạc sĩ thuộc loại đầu đàn mà không giải đáp được. Chúng tôi kéo nhau vào thăm anh. KHẮC TUẾ. Nói đoạn.
Chị Thương Huyền hát luôn bài Trống cơm. Chúng tôi cũng đã hỏi nhiều người. Hát mà chả biết ý nghĩa. Có cái “tủ” nào thì cứ việc đem ra mà dùng chứ còn băn khoăn gì nữa?”. Đang nằm anh bật dậy say sưa giảng giải: “Tang” là cây dâu tang. Nhiều anh chị em rất tiếc là không được chụp ảnh với Bác.
Chúng tôi cứ ngơm ngớp mỗi lần dựng tác phẩm mới để biểu diễn là phải soi rọi cho thật kỹ những ca từ xem có chỗ nào vấp váp thì cùng nhau phân tách hoặc hỏi tác giả. Bác đáp: “Ừ. Ông trợ lý là người rất giỏi Hán học. Cứ đăm đăm nhìn con đường từ sứ quán dẫn ra quốc lộ để theo dõi đoàn xe của Bác. Tôi sực nhớ ra câu hỏi của Bác Hồ về “duyên nợ khách tang bồng” và nhờ anh đáp.
Chúng tôi được triệu tập đến đây để đón Bác. Bịn rịn nhìn theo Bác. Các cô. Đại sứ quán Việt Nam ta ngự trú ở quả đồi phía Tây Bình Nhưỡng. Vì phải giữ kỷ luật thứ tự. Cũng không dám chạy theo vì thái độ của đồng chí cận vệ rất nghiêm. Vui như thế là đủ rồi.